Ngành gỗ và nội thất Việt Nam đang đứng trước yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế về tính bền vững và minh bạch. Việc làm sạch và minh bạch hóa chuỗi cung ứng không chỉ là tuân thủ quy định mà còn là chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ngoài EU, nhiều thị trường xuất khẩu nội thất của Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Mỹ cũng đang nghiên cứu quy định nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ dựa trên chuỗi cung ứng.
Một hệ thống phức tạp
Chuỗi cung ứng của ngành gỗ và nội thất là một hệ thống phức tạp và liên kết chặt chẽ. Nó bao trùm toàn bộ quá trình từ khi nguyên liệu thô cho đến khi sản phẩm hoàn thiện đến tay người tiêu dùng. Mỗi mắt xích trong chuỗi cung ứng đều đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng, tối ưu hóa chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Cụ thể, ở giai đoạn đầu tiên việc cung cấp nguyên liệu đầu vào ổn định, hợp pháp và bền vững (có chứng chỉ FSC, PEFC…) là nền tảng. Giai đoạn chế biến sơ cấp, nơi gỗ nguyên liệu được xẻ, sấy, xử lý mối mọt và phân loại. Giai đoạn này tạo ra bán thành phẩm như ván xẻ, ván ghép, MDF, HDF, phục vụ cho sản xuất đồ gỗ và nội thất. Tại các nhà máy, giai đoạn thiết kế và sản xuất nội thất diễn ra, bao gồm thiết kế, gia công, lắp ráp và hoàn thiện sản phẩm (sơn, phủ bề mặt, bọc nệm…). Đây là mắt xích tạo ra giá trị gia tăng cao, thể hiện năng lực sáng tạo, công nghệ và tay nghề của ngành.
Sản phẩm hoàn thiện sau đó được đưa vào các kênh thương mại và phân phối. Các kênh này bao gồm xuất khẩu thông qua nhà mua hàng, hệ thống bán lẻ quốc tế hoặc tiêu thụ nội địa qua showroom, đại lý, thương mại điện tử. Doanh nghiệp (DN) cần đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, chứng chỉ, khả năng truy xuất nguồn gốc và xu hướng tiêu dùng ngày càng khắt khe. Cuối cùng, chuỗi cung ứng hiện đại còn mở rộng sang dịch vụ hậu mãi và tái chế, bao gồm bảo hành, bảo trì, hỗ trợ khách hàng và các hoạt động thu hồi, tái chế sản phẩm.
“Áp lực minh bạch chuỗi cung ứng đang là vấn đề chung đối với các DN toàn cầu, cả ngành gỗ và các ngành sản xuất khác”, chuyên gia tư vấn Thomas đến từ Đan Mạch nhận xét. Ông chỉ ra rằng yêu cầu tuân thủ luật pháp rất rộng và kéo dài trên toàn chuỗi, điều này gây khó khăn trong việc truy xuất nguồn gốc. Là một quốc gia cung ứng hàng hóa cho thị trường thế giới, Việt Nam chắc chắn không thể đứng ngoài tiến bộ này.
Ông Trương Tất Đơ, đại diện Cục Lâm nghiệp nhấn mạnh rằng bất kỳ khâu nào trên chuỗi vi phạm thì sản phẩm cũng không được chấp nhận. “Chuỗi chế biến gỗ Việt Nam có nguy cơ vi phạm cao do dài và phức tạp, có thể từ địa lý vùng đất trồng hay xuất xứ nguyên phụ liệu”, ông Đơ nói.
Gia tăng lợi thế trên toàn chuỗi
Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Tiệp, Phó giám đốc Văn phòng Chứng chỉ rừng Quốc gia, cho biết trong tương lai, chắc chắn DN sẽ phải mô tả và minh bạch từng khâu trên chuỗi cung ứng. Ở phần đầu của chuỗi, dù là nguyên liệu nhập khẩu hay bản địa, DN đều phải minh bạch thông tin. Việc giải trình từ đầu chuỗi giúp ngành gỗ Việt Nam tránh nguy cơ bị cáo buộc sử dụng nguyên liệu từ các vùng rủi ro cao, gian lận xuất xứ… Để minh bạch chuỗi cung ứng thì việc đầu tiên là cần có hệ thống thể hiện trách nhiệm giải trình của nước sở tại. Ông nhấn mạnh: “Ngay cả gỗ từ rừng trồng trong nước cũng cần có chứng chỉ. Các cơ quan ban ngành cần đầu tư nghiêm túc cho hệ thống này để hỗ trợ pháp lý cho chuỗi”. Theo ông Tiệp, các yêu cầu của EUDR là cơ hội lớn cho các DN có sự chuẩn bị tốt trong hành trình “làm sạch” chuỗi cung ứng của ngành gỗ Việt Nam.
Đồng quan điểm, ông Trương Tất Đơ cũng cho rằng việc làm sạch chuỗi cung ứng trước hết là để đáp ứng yêu cầu của EUDR, sau đó là gia tăng lợi thế cạnh tranh và hướng đến phát triển bền vững cho DN ngành gỗ. Bài học từ ngành thủy hải sản cho thấy khi đã bị “thẻ vàng” thì khó lấy lại năng lực cạnh tranh. Ông Đơ khuyến nghị DN cần nắm vững yêu cầu, điều chỉnh mô hình sản xuất, thanh lọc các rủi ro, chủ động thực hiện thu thập thông tin và chịu trách nhiệm giải trình trên toàn chuỗi.
Bà Trần Như Trang, Trưởng đại diện SIPPO Việt Nam cho biết trong một khảo sát mới đây cho thấy 77% DN Việt Nam đã biết phải có giải trình và thực hành bền vững. Động lực thực hành đến từ áp lực nhà đầu tư (40%) và mong muốn có hình ảnh tốt với khách hàng (20%). Nghĩa là phần lớn DN Việt Nam hiện vẫn làm theo yêu cầu thay vì nhu cầu tự thân.
Khách hàng mua sắm nội thất, đặc biệt là các thế hệ Milenium và Gen Z đã thay đổi hành vi mua sắm, yêu cầu thông tin minh bạch và muốn biết câu chuyện đằng sau sản phẩm họ mua. Hiện các thương hiệu nội thất toàn cầu mà điển hình là IKEA đã và đang cấp tập sắp xếp lại chuỗi cung ứng của họ. Theo bà Trang, phần lớn DN Việt Nam chủ yếu gia công cho các thương hiệu lớn, đón đầu và thích ứng dựa trên nhu cầu nội tại ngay từ bây giờ sẽ là lợi thế cho các DN trong tương lai không xa. Do vậy, minh bạch thông tin, kiểm soát chuỗi cung ứng nên được xem là một chiến lược và cần sớm đưa vào vận hành. Điều này mang lại lợi thế cạnh tranh, chỉ số vận hành tốt hơn, hiệu quả kinh doanh tốt hơn, dễ thu hút cả khách hàng lẫn nhà đầu tư.
Đặng Quý Yên